Nếu nhà nào khá giả, trước di ảnh thường đặt đỉnh đồng để đốt trầm vào mỗi dịp lễ tết, cúng giỗ, đỉnh đồng phổ biến được chạm khắc long, lân, mai, trúc. Hai bên bát nhang phía trước là đôi chân đèn để đốt nến, có ý nghĩa tượng trưng cho đôi vầng nhật nguyệt, cũng để tỏ rỏ quan niệm rằng người chết nhưng linh hồn của họ thì không tắt. Ở một số nơi vị trí đôi chân đèn, người ta dùng hai ngọn đèn dầu để thay thế.
Tường sau không gian bàn thờ ở nhà khá giả là hoành phi và liễn đối bằng Hán tự, có sơn son thếp vàng, nội dung nói lên công đức của người đã khuất. Ở các gia đình bình dân, đó là những tranh thờ, thường là tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư, cá chép vượt vũ môn hay các chữ khá quen thuộc như Phúc, Lộc, Thọ (viết bằng Hán tự).
Trong việc thờ cúng tổ tiên, có hai ngày quan trọng nhất, đó là ngày giỗ và ngày Tết âm lịch truyền thống. Ngày giỗ cúng đúng vào ngày trước ngày mất (theo âm lịch) của người được thờ tự. Đây là dịp để con cháu tề tựu, tưởng nhớ, bày tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên. Đây cũng chính là dịp để gia chủ có cơ hội đáp nghĩa với dòng họ, bà con láng giềng, những người từng chia sẻ buồn vui, bất hạnh với gia đình mình, nên ngày giỗ theo truyền thống Việt thường được tổ chức tiệc tùng khá linh đình.
Trong ngày Tết cổ truyền, ngoài ý nghĩa đưa năm cũ, đón năm mới, còn là dịp để mọi người ôn cố tri tân và việc cúng kiến ông bà được coi như nghi lễ hàng đầu. Không khí ngày Tết, đặc biệt là trong những ngày giáp Tết, đến với các gia đình người Việt bắt đầu từ việc trang hoàng bàn thờ ông bà. Những đồ thờ được con cháu đem ra lau chùi, đánh bóng, ngày nay thường có các dịch vụ đánh bóng lư đồng, dễ tìm thấy trên các con đường, dịp Tết về.
Mâm cúng dù là ngày giỗ hay ngày Tết, không nên đặt trực tiếp trên bàn thờ mà đặt trên chiếc bàn thấp hơn, được kê trước bàn thờ. Trước khi người chủ trì thờ tự cùng con cháu dâng hương, người ta còn đặt lên bàn thờ ba ly nước, có ý nghĩa tượng trưng cho sự thanh khiết của trời đất và tinh hoa của mùa màng.
Ỷ môn
Ngoài bàn thờ, người ta có che một chiếc màn rèm được gọi là ỷ môn. Khi cúng lễ xong, phải bỏ màn xuống để che khuất bàn thờ, để một lúc sau mới hạ cỗ bàn. ý nghĩa của hành động này, theo quan niệm ông bà ta khi xưa “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”, kính mời các vị tổ tiên, ông bà về chung hưởng vật phẩm do con cháu dâng cúng. Khi các ngài đương “ăn uống” phải che màn lại, để người ngoài không nhìn thấy, như là phép lịch sự như các vị tổ tiên lúc sinh thời.
Hoành phi
Xưa kia, mỗi khi một nhà ai đó có các việc trọng như: mừng nhà mới, vinh quy bái tổ, chúc thọ thầy, mẹ, người theo Nho học thường tặng nhau đôi câu đôi vàng sơn son thếp vàng hoặc bạc, sang hơn thì tặng cả bức hoành. Còn bức hoành, đương nhiên có bố cục theo chiều ngang thường treo ngay xà ngang gian chính giữa, ở phía trên là câu đối. Hoành phi – Câu đối phải luôn đi thành bộ, thành một chỉnh thể trong lối chơi chữ được người dân trăm họ ưa chuộng từ rất lâu.
Người có của thường trang trí hoành phi câu đối sơn son thếp vàng. Còn nhà nào không đủ ngân lượng để thếp vàng, thì vẫn có nền son, tuy nhiên chỉ thếp bạc thôi. Thứ dân xưa, dù nghèo đến đâu cũng gắng sắm sửa một bức hoành phi trong nhà, thường thì gỗ tạp, hoặc mang cơi trầu, đĩa xôi nhờ thầy đồ viết cho mấy chữ vào giấy, kính cẩn mà treo trên bàn thờ. Những cử chỉ đó nhằm thể hiện lòng thành kính với bậc Thánh hiền. Bức hoành phi là phần đầu tiên, đặt trên cùng của bàn thờ, chủ yếu tập trung vào những nội dung như: Công đức của tổ tiên để lại, chí hướng của tổ tiên, lời căn dặn của tổ tiên với con cháu…
Khám thờ
Bàn thờ Gia Tiên theo phong tục Việt Nam xưa thì có cả Ngai thờ và Khám thờ.
Ngai thờ cao ngang ngực, được đặt trước khám thờ, cao ngang mặt, trên Ngai thờ đặt Ngũ sự hoặc Thất sự. Ngũ sự bao gồm một bát hương đặt ở giữa, hai chân đèn để hai bên, phía sau là độc bình cắm hoa đặt sau chân đèn bên trái và khay quả đặt sau chân đèn bên phải. Thất sự là gồm Ngũ sự cộng thêm đỉnh hương và đèn Thái cực, cách bày biện có khác chút ít là đỉnh hương nằm giữa ngang chân đèn, bát hương đặt trước đỉnh hương và đèn Thái cực đặt sau đỉnh hương.
Khám thờ, có cửa mở ra đóng lại, bên trong đặt các linh vị tổ tiên, ngay chính giữa khám thờ viết hai chữ “Thần Chủ”. Xưa khi lập bàn thờ gia tiên, gia chủ chuẩn bị mọi thứ như trên và viết từ “Thần Chủ” nhưng chữ “Chủ” lại thiếu một nét chấm, rồi sau đó mời một vị quan có uy tín trong vùng, đến dùng son điền thêm nét chấm đó thì chữ Chủ mới đủ, lễ này trong dân gian xưa gọi là khai hoa điểm nhãn.
Ngày nay, phần lớn các gia đình trẻ không lập bàn thờ, tất cả ngai thờ và khám thờ được thay thế bằng một tủ thờ. Tủ thờ thường có độ cao ngang mặt, đặt sát vách, phía trên bày biện đồ thờ tự, phía dưới, trong tủ chứa các vật dụng dành cho việc thờ cúng. Nếu nhà trệt có ít phòng, nên đặt tủ thờ ngay phòng khách đối diện cửa ra vào, trường hợp nếu gia đình có phòng thờ riêng, thì phải bố trí cạnh phòng khách, đối diện tủ thờ nhất định phải có cửa sổ để lấy dương khí. Còn với nhà lầu, nhiều tầng thì đặt trên tầng cao nhất, đối diện tủ thờ cũng phải có cửa. Phần mặt trên của tủ thờ, thường bày biện Ngũ sự hoặc Thất sự, ngay sát vách đặt một ngai cao có bài vị Cửu Huyền Thất tổ, hai bên ngai thì đặt di ảnh của người thân quá cố.
Câu đối
Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của người viết trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý rằng, từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Nội dung chính câu đối được treo hai bên bàn thờ là những tâm điều răn dạy, nhắc nhở con cháu sống tốt, thiện lương hoặc thể hiện sự tiếc thương với người đã khuất.
Bàn thờ
Thông thường thì bàn thờ gia tiên được bố trí ở ngay gian chính giữa của ngôi nhà, cũng có thể bố trí một gian ở bên trái từ ngoài sân nhìn vào. Trong những gia đình giàu có, sang trọng thuộc lớp trung lưu, thì đồ thờ gồm một bệ tam sự (có môt cái đỉnh (lư), cặp chân đèn bằng đồng để cắm nến, hay một bộ Ngũ sự có thêm lọ độc bình, chân bệ để đèn. Nếu là bộ “thất sự” thì lại có thêm ống đựng hương, ống cắm đũa và một lư hương để trầm. Tất cả đều được đúc bằng đồng. Những nhà khá giả còn có đôi hạc nhỏ cũng bằng đồng. Đồ thờ, nếu gia đình không có điều kiện sắm bằng đồng, thì làm bằng gỗ tiện và thường sơn đỏ.
Thông thường người ta, chia gian thờ làm ba lớp. Lớp ngoài là bộ phận phản, để mọi người đến làm lễ, không đặt phản thì có thể để trống nền nhà, khi có việc cần cúng bái, có thể bày thêm các bàn ghế, hay chải chiếu để hành lễ. Lớp thứ hai là hương án, trên đặt bộ đồ Tam sự hay Ngũ sự, lớp thứ ba ở trong cùng, trên để một khám sơn son, bài vị, hộp hay ống đựng gia phả, khay đựng vật cúng, đài rượu và có thể có ảnh chân dung người thân quá cố.
Bát hương
Bát hương được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, nhưng tốt nhất vẫn là bằng kim loại: đồng, vàng, bạc. Khi bốc bát hương mới, phải hết sức cẩn thận, nhất tâm nhất niệm, trong lòng thư thái, đừng có ý nghĩ vẩn đục. Trong Bát hương chỉ có cát trắng khô sạch, vàng bạc, đá ngũ sắc, có ghi rõ tổ họ.
Ngày 23 tháng chạp, sau khi đưa ông Táo thì gõ các chân hương đem ra sân đốt, rồi thả ra sông, sau đó dọn dẹp vệ sinh lại tủ thờ, không được dùng nước rửa, vì bàn thờ mệnh Hỏa, Hỏa khắc Thủy (Điều này ít gia đình nào để ý), đến trưa ngày 30 tháng chạp mới cúng rước ông bà và bắt đầu thắp hương lại.
Điều cần lưu tâm là nếu bày biện Thất sự thì ngọn đèn Thái cực phải luôn để sáng. Khi bát hương tự bốc hỏa, không được vội vàng đổ nước vào, mà từ từ chuyển các vật dụng dễ cháy ra. Khi bát hương đã cháy hết, thì chuyển các vị trí về như cũ. Bát hương cháy có hai loại: Hóa dương, tốc độ cháy nhanh, hóa âm, cháy từ từ. Tuỳ theo mức độ cháy, dựa vào đó có thể dự báo cát hung . Nếu bát hương cháy bị hỏng, cháy lan ra bàn thờ thì tùy theo tình hình kinh tế của gia chủ mà thay bàn thờ và bát hương mới.
Ưu Đàm (Tổng hợp)
Theo Tử vi số mệnh