Home Ban Biên Tập Bình Chọn Một dạng tâm lý, động cơ sống an phận

Một dạng tâm lý, động cơ sống an phận

Tâm lý chung của người Việt là muốn sống yên lành, ngại va đụng. Cái gì mà bị dồn ép quá, hết sức nén như lò xo, ráng chịu đến khi tức nước vỡ bờ mới đấu tranh. Nhưng ngay cả đấu tranh cũng cần có tập thể, cần số đông, có sự dựa vào tập thể, ít khi cá nhân dám trực diện.

1020
0

Tâm lý đó sinh ra cách sống an phận thủ thường. Tạm hiểu về đặc trưng tâm lý này là đưa mọi sự có dính đến các yếu tố khách quan trở về bình thường, dù bản thân vẫn chưa an lòng thực sự, vẫn nhiều bức bách, nhưng chấp nhận sống trong “thế thủ” – tức phòng ngự đơn phương.

Người có cách sống này sẵn sàng chịu thua thiệt, chấp nhận những điều còn trái ngang, để trước hết được yên thân. Vì vậy, khi cần thể hiện, đấu tranh thực thi quyền dân chủ của mình, người ta thường né tránh. Tâm lý lối sống này rơi vào chốn quan trường thì sinh ra chần chừ, không dám nghĩ, không dám làm, không dám chịu trách nhiệm, ngại đưa ra quyết đoán, cái gì cũng đưa ra tập thể bàn bạc rồi dựa theo tâm lý số đông mà quyết, có gì cả tập thể chịu trách nhiệm, bản thân được vô can, lấy lòng được cả các bên. Họ rất sợ mất lòng kẻ mình đang nhờ cậy, kẻ đang chi phối mình, tự biến mình thành nô lệ do vật chất, chức quyền, sự tiến thân bằng dựa dẫm, cầu an hưởng lợi. Kẻ đó mà lảm vua thì mất hẳn độc lập tự chủ, dễ bị mua chuộc thao túng có khi dẫn đến mất nước. Nó làm cho bạo tàn được dịp, lừa bịp gặp thời.

An phận thủ thường là chấp nhận sự thiệt thòi nào đó, nhưng cái lợi cuối cùng phải về cho chính mình. Nắm được tâm lý đó, bộ máy chính quyền, công an thường gia tăng đe nẹt, rung cây nhát khỉ, lấy kẻ này răn đe, ngăn chặn người kia. Vụ bé làm cho lớn để dằn mặt người khác, ngăn chặn vụ khác.

Tâm lý an phận co lại cái lợi cá nhân sinh ra thủ tiêu đấu tranh. Hạnh phúc là đấu tranhh, nhưng họ lại coi tránh mọi sự đấu tranh là cách tốt nhất để được yên thân. Ngay cả khi bị tước đoạt quyền lợi một cách phi pháp, họ vẫn kiên trì “đấu tranh ôn hòa”, tức là vác đơn đi khiếu kiện một cách kiên trì hết năm này sang năm khác, hết cửa quan này đến cửa tiếp dân kia. Điều có thể thông cảm nhất cho lối sống an phận thủ thường là họ “quá hiền”, hiền đến mức nhu nhược.

Quan chức, quan quyền, công an khi đã “bắ thóp” được điểm yếu ấy, nhận ra sự nhu nhược ấy, họ sẽ có những động thái, những lối hành xử thô bạo, đem quyền lực ức hiếp người dân. Cho nên, trách họ thì ít, trách cái thể chế và kẻ nắm quyền thì nhiều. Thiếu gì kẻ khi tiếp xúc với dân (cử tri) thì tỏ ra mềm, mình là “người hiền”, nhũn nhặn, thậm chí đưa ra những lời hứa ngon dỗ ngọt, “nổ” rất vang, cốt tranh thủ được số phiếu. Sự lừa mị đó làm cho khách quan ít ai nhận ra được ngay. Họ hết lời nói về dân chủ, hô khẩu hiệu đã quá quen: “của dân, do dân, vì dân”. Đến khi trúng cử, yên vị ghế ông này bà kia, họ liền trở mặt, quát nạt, hung hăng, hoạnh họe, áp đảo đe nẹt, dọa dẫm người dân. Những biến dạng như vậy, làm cho người ta hầu như không có một lý do gì để có thể thông cảm cho những người an phận thủ thường cả. Họ là những người chỉ biết sống cho ngày hôm nay, nhìn gần ngay trước mắt, không lường đến những hậu họa còn gánh nặng ngày mai, thời gian sau…

Phần lớn, người luôn luôn nơm nớp, sợ phản ứng, ngại phê bình khi chính quyền, công an làm sai trái pháp luật, vi phạm dân chủ. Họ ngại sự va đụng xáo trộn, bởi vì tự cuộc sống đã “dạy cho bài học”: Nói làm cái quải gì, không đi đến dâu, chẳng phải đầu cũng phải tai. Cái động cơ “ngậm miệng ăn tiền” cũng từ đó mà ra. Họ luôn luôn thự hiện tiêu chí 5 không: “Không nói, không nghe, không biết, không thấy, không liên can”. Cách sống ấy không những dễ bị cái xấu, cái ác, lòng tham lợi dụng mà còn làm lỏng lẽo khối đại đoàn kết, giảm đi sức mạnh cần thiết vì sự phát triển và văn minh của cộng đồng xã hội.

Ngay như trong làng báo, Tổng biên tập, Ban biên tập các báo, đài cũng hình thành một phong cách bất thành văn: Thấy cái đúng không dám bảo vệ, không dám bênh vực; thấy cái sai không dám phê phán, họp giao ban về tư tưởng, về tuyên truyền, cấp trên nói sao thì về cứ răm rắp như vậy, không để trật chút nào. Vì thế mà mất hẳn tính chiến đấu, tính hiện thực và cả trung thực của báo chí, thủ tiêu đấu tranh, né tránh phê phán. Dân hết nhờ. Công luận, công lý đành bó tay.

Rõ ràng, cái lối sống an phận thủ thường này là tự bản thân họ không biết tin ai, không tin ở chính mình nữa, thấy mình kém khả năng, sự tự giác chấp thuận thiệt thòi từ vật chất, thể chất đến tâm sinh lý. Còn loại thứ hai, nói về người bình thường, sự an phận, ngại nói thẳng nói thật lại dễ thất vọng, dễ chán chường, dễ ngã gục khi gặp phải những khó khăn, những trắc trở, những mối de dọa bất an từ thế lực cường quyền. Khi đó, họ chỉ biết than vắn thở dài, than thân trách phận, đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan mà không tìm cách để vượt qua.

Biểu hiện rõ nhất là họ thiếu tự chủ ngay trong nội lực, thiếu hẳn chính kién, yếu về bản lĩnh sống. Những người này khi nắm cương vị nào đó, có chức có quyền, thường sinh ra nịnh nọt, lấy lòng cấp trên, biết họ bảo làm những việc sai, ngoài ý muốn, biết là hại cho người khác, nhưng vẫn răm rắp nghe theo, thậm chí còn hăng hái một cách mù quáng, kể cả hết lòng lăn xả, bất chấp để tỏ ra trung thành đến mức ngu trung. Thậm chí họ còn không chùn tay khi gây ra những hành động tội ác vì muốn “lập công”, khoái lĩnh thưởng, lên chức, lên lương.

Sự tự chủ rất cần nghị lực, bản lính sống, nhưng họ không tự chủ mà quen sống dựa, mặc kệ, “mũ ni che tai, đèn nhà ai nấy rạng”, hoặc là “đấu tranh, tránh đâu”. Cái nguy của lối sống này là họ sẵn sàng uốn mình để sống, cái lối “ở bầ thì tròn, ở ống thì dài; gió chiều nào che chiều đó”. Thiệt hại đưa đến cho ai cũng mặc, miễn là mình có lợi. Khi họ đã sống như vậy, mọi phẩm chất cần thiết về những giá trị nhân văn, nhân đức, nhân đạo, nhân sinh họ không cần quan tâm. Lối sống này, khi nhảy ra “làm chính trị” là điển hình nhất của thói cơ hội.

Họ do dự hay chần chừ làm cho con người mất đi bao nhiều cơ hội thành công, cũng như khi cần đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, phê phán những sai lầm của đồng cấp hoặc cấp trên. Thế nhưng, họ lại coi thiệt thòi của người này, người kia thành cơ hội thủ lợi, tiến thân cho bản thân mình.

Nội lực mất đi tự chủ, mất hẳn chính kiến, mất quả quyết cũng do đó mà ra. Người quả quyết thì quyết định một việc rất nhanh chóng nhưng thay đổi quyết định một cách chậm chạp, vì họ đã rất tin ở cái đúng trong quyết định của mình; còn ngược lại người thiếu quả quyết thì quyết định sự việc một cách chậm chạp và nhưng bỗng chốc lại thay đổi một cách dễ dàng. Mọi người tưởng như sự thể xảy ra theo chiều hướng này, quyết đoán kia đã rõ, nhưng phút 89 mới thấy ngược lại, quá bất ngờ.

Làm người đứng đầu, người cầm trịch lãnh đạo mà như thế thì bỏ qua rất nhiều cơ hội. Hậu họa của sai lầm này là tiền đề sinh ra sai lầm khác. Từ đó, uy tín mất luôn. Những lãnh đạo như thế dẫu có mệnh danh là nhà cách mạng thì thực chất chính bản thân họ không có những phát kiến giá trị, họ rất bảo thủ, trì trệ, rập khuôn máy móc, công thức sáo mòn, “ta đi theo lối cũ là lối an toàn”. Họ không dám đưa ra một phương án cải biến, chỉnh đốn gì thực sự có hiệu quả cho sự phát triển, trái lại kìm hãm sự tăng tốc chiều thuận hội nhập của xã hội, họ sợ canh tân đổi mới, tóm lại là họ khoác áo cách mạng nhưng lại rất sợ làm cách mạng, rất ngại cải tổ theo hướng hoàn chỉnh hóa. Cái đuôi phong kiến tập quyền quan liêu kiểu vua-tôi có cơ hội bám theo, mất dần tính dân chủ ưu việt.

Người đứng đầu mà lo an phận thường sinh ra nhu nhược, bê trễ, sống chỉ muốn lấy lòng tất cả mọi người có liên quan, lấy phiếu tín nhiệm cao với một số đông trong tổ chức tập thể giới hạn chức quyền, mà ở đó không phải là đại diện cho số đông toàn dân, một tập thể lãnh đạo tự trang bị đầy quyền lực như mô hình Trung ương tập quyền, một biến dạng của chuyên chế bè phái, xa lạ hoàn toàn với bản chất cần có của một chế độ xã hội dân chủ. Cái uy tín lãnh đạo kiểu đó không được dân tôn vinh, không được toàn đảng ghi nhận, mà chỉ khoanh hẹp trong một hệ thống đầy lỗi lầm và mất lòng dân, kể cả việc hình thành nhóm lợi ích chính trị-kinh tế lấy uy quyền thay cho uy tín, dùng mệnh lệnh khỏa lấp sai lầm..

Ông ta không dám chí quyết mạnh bạo một cái gì, đụng chút việc là “xin ý kiến tập thể”, dựa vào “lãnh đạo tập thể”, coi nhẹ trách nhiệm của “cá nhân phụ trách”. Cho nên, dù đã ở cương vị lãnh đạo, họ cứ nhu nhơ, lơ mơ, lựa gió giật diều, việc gì thành công thì vơ vai trò của mình, nổ lên để tự khuếch trương thành tích, uy tín cá nhân; việc gì bị hỏng thì là “trách nhiệm tập thể”, là do cơ chế, thể chế, không thuộc cá nhân nào!

Như vừa qua, với nội dung đưa ra tại Hội nghị Trung ương 6, theo nguyên tắc đảng lãnh đạo thì có những vụ việc, những cá nhân mà Bộ chính trị đủ quyền quyết định, nhưng lại đá bóng sang sân, đánh bùn qua ao, tổ chức hội nghị gọi là “dân chủ trong đảng”, xin ý kiến Ban chấp hành Trung ương, đến mức hình thức kỷ luật nhẹ là khiển trách cũng không dám. Đó là một trong những bộc lộ của lối sống an phận, thực dụng, bậm môi qua đò khá phổ biến hiện nay! Cũng vì thế mà vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng bị mờ nhạt, sức chiến đấu kém đi khá rõ nét; dù là đảng cầm quyền, nhưng lại tư buông lỏng, không thể hiện được quyền lãnh đạo tối thượng trước thần dân thiên hạ.

Kẻ thứ dân an phận thủ thường, cơ hội, thực dụng thì tác hại không đáng kể, nhưng một vị lãnh đạo mà nhút nhát, thiếu lập trường, kém chí quyết do an phận thủ thường, cá nhận thực dụng, kém đức hy sinh, khi cái “tôi” choán hết cái “ta” thì có hại rất lớn đối với đất nước. Vì quá nặng cái “ý thức an phận” mà nhiều khi trở thành vô cảm.

Suy cho cùng, đó cũng là một thứ cá nhân chủ nghĩa, lối sống chứa đầy thực dụng, co lại để lúc nào, tình huống bối cảnh nào cũng được an phận đến mức nhu nhược, đớn hèn. Những người như thế, họ bất chấp dư luận, bất chấp mọi lời dèm pha, phê phán, không cần lòng tự trọng, mặc cho mọi sự khinh khi, miễn là mình có được cái lợi trước mắt, thế thôi!

Previous articleTha thứ – bài học vỡ lòng ai cũng cần nhớ
Next articleĐi biển hè này, vật dụng nào không thể thiếu?